Thành lập Đế quốc Việt Nam Đế_quốc_Việt_Nam

Nhật báo Điện tín loan tin Đế quốc Việt Nam tuyên bố độc lập.

Ngày 08 tháng 05 năm 1945, Hoàng đế Bảo Đại đã tuyên Chiếu với Nội các về việc nước Việt Nam đã được giải phóng. Chiếu có đoạn: "Nước Việt Nam nay đã được giải phóng. Trẫm đã lựa chọn khắp các nhân tài trong nước, kén lấy những người có học thức, có kinh nghiệm, chắc chư khanh sẽ không phụ lòng Trẫm ủy thác và lòng dân hi vọng. Chính phủ ngày nay sẽ không phụng sự một các nhân hay một đảng phái nào cả. Quốc dân phải đồng tâm hiệp lực, phải nhất thiết trông cậy ở mình...".

Sau Chiếu của Hoàng đế, Nội các ra Tuyên cáo với Quốc dân về việc nước Việt Nam độc lập: "Sau 80 năm bị áp chế, nước ta đã khôi phục nền tự chủ và địa vị của một nước văn hiến cõi Á Đông. Vâng theo Đức Kim thượng, chúng tôi hết sức theo đuổi mục đích hợp nhất Quốc dân để củng cố nền độc lập và gây mạnh tinh thần yêu nước trong mọi giai tầng xã hội. Chính phủ sẽ ghi công các bực hanh hùng đã hi sinh cho nòi giống, tìm cách cho các chính khách hải ngoại được trở về; xóa bỏ những hình án bất công và giải phóng những nhà ái quốc còn bị giam hãm. Nội các sẽ tìm cách thống nhất pháp luật để tránh sự lạm quyền. Nạn tham nhũng cần phải trừ cho tiệt. Chính phủ rất chú trọng đào tạo một thế hệ thanh niên mới, có tổ chức, có huấn luyện. Về kinh tế, Chính phủ dự bị một cuộc tổ chức mới, chú trọng nhất là nâng cao trình độ sinh hoạt dân chúng. Muốn thi hành chính sách ấy, phải cần sự hợp tác của các đoàn thể và cá nhân. Chúng tôi xin tuyên thể với quốc dân đem hết tâm trí để theo đuổi mục đích duy nhất là xây đắp nền độc lập nước nhà, không tư vì cá nhân hay đảng phái".

Cờ lệnh của Hoàng đế Bảo Đại.

Tháng 6 năm 1945, Chính phủ Trần Trọng Kim đặt quốc hiệu là Đế quốc Việt Nam; đặt quốc thiều là bài Đăng đàn cung và quốc ca là bài hát Việt Nam minh châu trời đông của nhạc sĩ Hùng Lân; quốc kỳ có "nền vàng hình chữ nhật, giữa có hình quẻ Ly màu đỏ thẫm".

Cho dù không đứng vững được bao lâu, Nội các Trần Trọng Kim đã cố gắng đặt nền móng xây dựng một thể chế độc lập và tự chủ đầu tiên không thuộc Pháp[29]. Tuy không được chuẩn bị kỹ lưỡng cũng như thiếu thốn rất nhiều nhân sự và vật lực để điều hành một chính phủ vừa manh nha, đối ngoại thì phải cố gắng dung hòa các thế lực quốc tế và chủ thuyết Đại Đông Á của Đế quốc Nhật, đối nội thì có nhiều phe phái muốn giành chính quyền, chính phủ mới vẫn đạt được một số điều kiện cơ bản, nhóm lên hy vọng độc lập và tự chủ cho nước Việt Nam[25]. Nhưng thực tế lại cho thấy ngày càng rõ hơn việc đưa Trần Trọng Kim đứng ra lập nội các cho Bảo Đại trước sau đều do người Nhật đạo diễn một cách khéo léo để dẫn dụ Trần Trọng Kim vào “tròng”. Trong quá trình thành lập nội các, tình báo của Hải quân Nhật ở Đông Dương đã can thiệp rất sâu vào quá trình chọn lựa người đứng đầu cũng như nhân sự Chính phủ[30]. Theo nhận định của báo Nhân dân sau này, tuy ít nhiều nắm bắt được nguyện vọng độc lập của quốc dân, và nhận thức được ý nghĩa của khối đoàn kết dân tộc, đề ra được một số chủ trương cải cách tiến bộ, nhưng Chính phủ Trần Trọng Kim không thể quy tụ, phát huy được sức mạnh của dân tộc, bởi thực quyền và phương tiện nằm trong tay Nhật. Công việc cấp bách nhất khi đó là vận chuyển gạo từ miền Nam ra miền Bắc để cứu đói mà chính phủ này cũng không thực hiện nổi[10].

Theo hồi ký của nhà báo Nguyễn Kỳ Nam, người được Toàn quyền Nhật Bản là Minoda cho đi theo trong các chuyến công du các tỉnh, sau một thời gian đã nhận xét: "Thế là rõ rệt rồi, Minoda thay thế Pagès (toàn quyền Pháp trước đó)! Nhật thay thế Pháp cai trị Nam Kỳ theo luật lệ Pháp để lại. Không hơn không kém! Việt Nam không độc lập gì ráo! Hay là Việt Nam xin được độc lập trên giấy tờ mà thôi. Chứ thật sự thì anh Nhật cầm hết quyền hành. Minoda đi khắp các tỉnh, định đường lối cai trị... y hệt như Pháp" [31].

Thả tù chính trị và lập đội trị an

Trong những bước đầu tiên là Bộ trưởng Tư pháp Trịnh Đình Thảo ra lệnh thả hàng ngàn tù nhân chính trị bị Pháp giam giữ[25]. Tuy nhiên, Đạo dụ ngày 17/5/1945 quy định chỉ thả những chính trị phạm không phải là đảng viên Cộng sản, và chỉ có một số rất ít tù nhân là đảng viên Cộng sản được ra khỏi nhà lao[32].

Tiếp theo đó thì Bộ trưởng Bộ Thanh niên là Phan Anh đứng tổ chức đội Thanh niên Tiền tuyến theo tinh thần quốc gia để huy động quốc dân giữ an ninh vì không có bộ Quốc phòng. Đế quốc Việt Nam không thành lập Bộ Quốc phòng để tránh phải tham gia chiến tranh thế giới thứ hai với tư cách đồng minh của Nhật Bản[25].

Đế quốc Việt Nam không có quân đội, người Nhật nắm toàn bộ vấn đề quốc phòng mà không giao cho chính phủ Trần Trọng Kim. Để bảo vệ trị an, Đế quốc Việt Nam có một nhóm nhỏ gọi là Thanh niên Tiền tuyến, nhưng khi Cách mạng tháng Tám nổ ra, lực lượng này lại bỏ đi theo Việt Minh. Không có quân đội, lực lượng trị an lại không tuân lệnh là một trong các nguyên nhân khiến Đế quốc Việt Nam dễ dàng bị sụp đổ sau này.

Thu hồi Nam Kỳ

Trong thời gian ngắn ngủi chấp chính, chính phủ mới đã làm được một việc quan trọng nhất là thống nhất trên danh nghĩa xứ Nam Kỳ vào nước Việt Nam kể từ ngày 8 tháng Tám, 1945. Trước đó vào ngày 20 tháng Bảy chính phủ Việt Nam cũng thu hồi ba nhượng địa cũ là Hà Nội, Hải PhòngĐà Nẵng vốn bị người Pháp chia cắt và áp dụng quy chế trực trị[33].

Về việc thu hồi Nam Kỳ thì cuộc thương thuyết với Toàn quyền Tsuchihashi có kết quả mặc dù lúc đầu Tsuchihashi còn do dự vì triều đình Cao Miên cũng đòi đất Nam Kỳ. Thủ tướng Trần Trọng Kim phái Nguyễn Văn Sâm là Khâm sai vào Sài Gòn tiếp thu. Đại sứ Yokoyama ở Huế theo đó tuyên bố trao trả Nam Kỳ cho triều đình Huế. Ở ngoài Bắc thì Thống sứ Nishimura bàn giao với Khâm sai Phan Kế Toại tại Hà Nội ngày 12 tháng 8, trong khi đó Thống đốc Minoda ở Sài Gòn đang đợi Khâm sai Nguyễn Văn Sâm nhưng vị khâm sai mãi đến ngày 19 mới đến nơi. Ngày 14 tháng 8, chính phủ Trần Trọng Kim công bố chính thức tiếp thu Nam Kỳ. Chỉ được non mười ngày, Lực lượng Quốc gia Thống nhất cùng Việt Minh vào chiếm các cơ sở công quyền ở Sài Gòn ngày 24 tháng 8 năm 1945. Sang ngày 26 thì Khâm sai Nguyễn Văn Sâm từ nhiệm sau khi được tin vua Bảo Đại đã thoái vị ở Huế, chấm dứt thể chế Đế quốc Việt Nam[34].

Tem in chân dung Hoàng đế Bảo ĐạiNam Phương Hoàng hậu dưới thời Đế quốc Việt Nam.

Cải cách hành chính

Chính phủ Trần Trọng Kim hợp nhất hai bộ máy hành chính Nam triều và Bảo hộ do thực dân Pháp để lại. Từ đây, chính phủ Trần Trọng Kim đứng đầu hệ thống hành chính thống nhất trên toàn quốc. Chính phủ buộc các quan chức địa phương chỉ được nhận chỉ thị và báo cáo trực tiếp với Chính phủ Việt Nam chứ không được liên hệ với Sở Tối cao Cố vấn Nhật Bản. Tuy nhiên các cơ quan công an, tuyên truyền, thông tin liên lạc vẫn do người Nhật kiểm soát[25].

Chính phủ thành lập Ủy ban Cải tổ và Thống nhất Luật pháp. Hội đồng Cải cách Cai trị, Tư pháp và Tài chính có 16 thành viên như các ông Vũ Văn Hiền, Trần Văn Chương, Trần Văn Ân, Nguyễn Văn Huyên, Trần Đình Nam, Phan Kế Toại được giao nhiệm vụ xúc tiến việc soạn thảo cơ cấu mới cho quốc gia[35].

Chính phủ này còn dự định lập ra những Tư vấn Hội nghị ở các địa phương để giúp các Cơ quan Hành chính địa phương, tiến tới thành lập Tư vấn Hội nghị Toàn quốc giúp chính phủ cải cách quốc gia và soạn thảo Hiến pháp. Thủ tướng Trần Trọng Kim ra chỉ thị ngày 8 tháng Năm thành lập Hội nghị Tư vấn Quốc gia gồm 59 thành viên từ nhiều giới để giúp sức[33] Sau đó sẽ bầu Quốc hội Lập hiến để phê chuẩn và ban hành Hiến pháp. Những dự định này chưa được thực hiện thì chính phủ đã giải tán.

Chính phủ cũng dự định soạn sơ thảo một bản Hiến pháp cấp tiến bảo đảm quyền tự do chính trị, tự do nghiệp đoàn và tự do tín ngưỡng. Hội đồng dự thảo Hiến pháp có 14 thành viên gồm có những ông Phan Anh, Nguyễn Tường Long, Vũ Đình Hòe, Huỳnh Thúc Kháng, Đặng Thai Mai, Tôn Quang Phiệt, Hồ Tá Khanh, Nguyễn Văn Sâm, Nguyễn Văn Thinh, Hồ Hữu Tường[35]. Việc soạn thảo mới chỉ được tiến hành dở dang thì Đế quốc Việt Nam đã sụp đổ.

Chính phủ cũng ra lệnh bãi bỏ thuế thân cho những ai không có tài sản và những người có tiền lương dưới 100 đồng một tháng[36].

Thay thế ảnh hưởng của Pháp

Đốc lý Hà Nội là Trần Văn Lai và Đô trưởng Sài Gòn Kha Vạng Cân ra sức đưa người Việt vào thay thế các vị trí của người Pháp trong bộ máy chính quyền và phá hủy các bức tượng do người Pháp dựng lên trong các thành phố[25].

Một bước đột phá không kém là thay chương trình dạy học bằng tiếng Pháp sang chương trình học bằng tiếng Việt, do học giả Hoàng Xuân Hãn đề ra. Thủ tướng Trần Trọng Kim giao việc này cho Hội đồng Cải cách Giáo dục với 18 thành viên trong đó có Hoàng Xuân Hãn, Hoàng Thị Nga, Nguyễn Mạnh Tường, Hoàng Minh Giám, Bùi Kỷ, Ngụy Như Kontum, Ưng Quả, và Hồ Văn Ngà duyệt xét.[35]

Ngày 3 Tháng Sáu, 1945 vua Bảo Đại ra dụ số 67 chính thức bỏ tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính và cho áp dụng chương trình giáo dục của Hoàng Xuân Hãn. Kết quả là đợt thi tú tài đầu tiên bằng tiếng Việt là vào niên học 1944-45. Tổng số trường học trên toàn quốc gồm có 4952 trường tiểu học (284.341 học sinh, thi bằng tiểu học), 25 trường cao đẳng tiểu học (2.000 học sính, thi bằng cao đẳng) và 4 trường trung học (500 học sinh, thi bằng tú tài) bấy lâu nay dùng tiếng Pháp để giảng dạy nay đổi qua dùng tiếng Việt.[37] Đây cũng là nền tảng xây dựng cho chương trình giáo dục Việt Nam Dân chủ Cộng hòagiáo dục Việt Nam Cộng hòa sau này. Tiếng Việt cũng được dùng làm ngôn ngữ hành chính, dùng ghi chép các giấy tờ, sổ sách.

Nạn đói năm 1945

Năm 1945, đường sắt xuyên Đông Dương không còn sử dụng được nữa và đường thiên lý Bắc Nam cũng bị Đồng Minh ném bom phá hoại. Đường biển thì quân Đồng minh đã gài thủy lôi ở cửa biển Hải Phòng khiến hải cảng chính ở Bắc Kỳ cũng không thông thương được. Tàu chở hàng cỡ lớn đã bị Nhật trưng dụng, đồng thời quân Đồng minh phong tỏa đường biển nên tàu bè chở gạo ra Bắc chỉ ra được đến Đà Nẵng. Khi không quân Đồng minh mở rộng tầm oanh kích thì tàu chở gạo phải cập bến ở Quy Nhơn rồi cuối cùng chỉ ra được đến Nha Trang. Các kho thóc ở miền Bắc thì do Nhật Bản nắm giữ để chuẩn bị chở về chính quốc nên không được phép dùng để phát chẩn cứu đói. Khi đó gạo được chất đống trong kho của Nhật, Bảo Đại đã thử thuyết phục Đại sứ quán Nhật Bản mở kho phát gạo nhưng chỉ huy Nhật Bản không cho phép.

Nạn nhân của nạn đói năm 1945.Xương sọ người chết đói 1945 được xếp lại trong hầm tại nghĩa trang Hợp Thiện, Hà Nội.

Không có phương tiện và tài chính, Nhật Bản thì tăng cường lấy gạo ở Việt Nam để chuyển về nước, chính phủ Trần Trọng Kim phải huy động những phương tiện thô sơ chuyển vận gạo từ Nam ra Bắc như xe bò hay thuyền nhỏ. Do thiếu phương tiện và nhân lực nên dù đã cố gắng Đế quốc Việt Nam vẫn không làm thuyên giảm được hậu quả ghê gớm của nạn đói[25] Kết quả là nạn đói năm Ất Dậu 1945 đã khiến gần 2 triệu người chết đói, hàng triệu người phải bỏ nhà cửa đi lang bạt kiếm ăn, nhiều vùng nông thôn tại miền Bắc Việt Nam trở nên xơ xác, tiêu điều.

Báo Ngày Nay xuất bản tháng 6/1945 nhận xét về sự bất lực hoàn toàn của Chính phủ Đế quốc Việt Nam, viết[32]:

“Chúng tôi nhận thấy ai ai cũng thất vọng và chán nản, vì sau hai tháng hô hào và tốn bao giấy mực, dân đói miền Bắc cũng chưa thấy một bao gạo nào ở miền Nam đưa ra. Lời tuyên bố của thủ tướng còn vang vọng bên tai ta: “Cần nhất là phải tiếp tế cho dân đói miền Bắc” mà tới nay việc làm vẫn chưa đi theo lời nói; tuy rằng gạo miền Nam vẫn chất đầy trong các kho, các nhà máy, tuy rằng giấy bạc vẫn nằm từng xấp dày trong các két sắt của nhà tư sản Việt Nam, tuy rằng nội các vẫn có một bộ tiếp tế và một bộ tài chính"

Về vấn đề này, nhà sử học Trần Văn Giàu chỉ ra nguyên nhân của sự bất lực này của Đế quốc Việt Nam[32]:

Lẽ dĩ nhiên, nguyên nhân trận chết đói năm 1945 chủ yếu không phải là do chính phủ Trần Trọng Kim mà là do chế độ thực dân, là chính sách tàn bạo của Pháp – Nhật. Sự bất lực của chính phủ Trần Trọng Kim phần lớn là do tính chất bù nhìn của nó. Nó không thể bớt chỗ nào thừa cho chỗ không có. Nó không thể chống nạn đầu cơ ở miền Bắc lúc ấy vẫn còn gạo trong các kho của quân phiệt Nhật. Nhật tích trữ lương thực để nuôi quân. Từ 9/3 đến giữa tháng 6, việc thu thóc tạ vẫn được thi hành trong lúc hàng chục vạn đồng bào ta chết rũ dọc đường xó chợ. Chính phủ Trần Trọng Kim đâu dám đụng đến việc thu thóc tạ, càng không dám đụng đến kho thóc của Nhật. Chính phủ đã cam đoan với Nhật là tiếp tế cho Nhật bằng hoặc hơn Pháp, để xứng đáng với cái "độc lập" mà Nhật ban cho!

Cả chính phủ Trần Trọng Kim và Nhật đều bắt buộc mọi sự vận chuyển thóc gạo từ Nam ra Bắc đều phải qua “Ủy ban thóc gạo” ở Sài Gòn mà ủy ban này do công ty Nhật nắm. Khi tải ra đến Bắc thì phải gom gạo cho công ty thóc gạo Bắc kỳ 75% số lượng, công ty này lo bảo đảm trước hết lương thực cho quân Nhật, còn lại mới bán cho dân

Không những vậy, Đạo dụ của chính phủ Trần Trọng Kim ngày 13/6/1945 còn quy định: ai phạm việc phá hoại cầu cống, đường sá, cướp phá hoặc làm hư hại kho ngũ cốc, đồ ăn, gạo, đều bị kết án tử hình. Đạo dụ cũng cấm chỉ mọi cuộc tụ tập trên 10 người. Vì đạo dụ này, nhân dân không dám kéo đi phá kho thóc để chia cho người đói, hàng chục vạn người đã chết đói ngay bên ngoài cửa những kho thóc còn đầy ắp[32].

Trong khi Bộ Tiếp tế chỉ làm được vài việc vặt, thì Bộ Tài chính của Đế quốc Việt Nam chỉ chuyên làm một việc là gom tiền thuế của dân giao cho Nhật. Chỉ riêng trong 5 tháng tồn tại, Chính phủ Trần Trọng Kim đã nộp cho Nhật Bản khoản tiền 720 triệu đồng Đông Dương (Piastre), ngang với số tiền 726 triệu do chính quyền thực dân Pháp nộp cho Nhật Bản trong 5 năm trước đó (từ 1940 tới 9/3/1945). Tổng cộng trong thời gian Thế chiến thứ hai, người Việt Nam đã phải nộp cho Nhật Bản khoản tiền 1 tỷ 446 triệu đồng Đông Dương, tương đương 14 tỷ 460 triệu Franc lúc đó[28].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Đế_quốc_Việt_Nam http://nghiencuulichsu.com/2014/05/29/ve-chinh-phu... http://www.vninfos.com/selection/histoire/1945.htm... http://archive.is/OSAak http://hopluu.net/a1586/phia-ben-kia-cuoc-cach-man... http://hopluu.net/a1587/phia-ben-kia-cuoc-cach-man... http://hopluu.net/a1588/phia-ben-kia-cuoc-cach-man... http://hopluu.net/p128a1585/6/phia-ben-kia-cuoc-ca... http://www.vietnamvanhien.net/motcongiobui.pdf http://www.jstor.org/discover/10.2307/2055845?sid=... http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/TranTrongKi...